CHUYỆN TÌNH CỦA HẬU NGHỆ VÀ HẰNG NGA
Hằng Nga và Hậu Nghệ đều là những
vị thần bất tử sống trên thiên đình. Một ngày kia, người con trai thứ 10 của Ngọc
Hoàng đã phân thân thành mười mặt trời từ đó gây nên thảm kịch cho loài người.
Trước tình hình đó, Hậu Nghệ, với tài bắn tên của mình đã bắn rơi 9 mặt trời
nhưng vì tình cảm, đã tha chết cho bản thể thứ 10 của con trai của Ngọc Hoàng.
Dĩ nhiên, Ngọc Hoàng không chấp nhận và rất phật ý. Ông ta đã trừng phạt Hậu
Nghệ và Hằng Nga bằng cách bắt họ phải sống cuộc đời con người ở trần thế.
Sau khi xuống trần thế, hối tiếc
cuộc sống bất tử đã qua, Hậu Nghệ đã bỏ nhà ra đi tìm thứ thuốc có thể trường
sinh bất lão. Cuối cùng, chàng tìm thấy Tây Vương Mẫu, bà đã cho Hậu Nghệ linh
dược, nhưng dặn rằng: mỗi người chỉ nên uống nửa viên để có được sự sống trường
tồn.
Hậu Nghệ đem viên thuốc về nhà
và để nó trong một chiếc lọ. Chàng đã cảnh báo Hằng Nga không được mở chiếc lọ
ra để xem trong đó có gì và đi săn bắn trong vài tháng. Cũng giống như Pandora
trong Thần Thoại Hi Lạp. Sự tò mò đã làm Hằng Nga mở chiệc lọ và tìm thấy viên
thuốc, dĩ nhiên nàng đã uống hết viên linh dược mà không biết rằng mỗi người chỉ
nên uống nửa viên. Hậu quả thật tai hại, Hằng Nga đã bay về mặt trăng mà không
thể cứu vãn được. Kể từ đó cả hai người đã phải sống trong tình cảnh chia lìa,
ngăn cách.
TẾT TRUNG THU BẮT ĐẦU TỪ ĐỜI ĐƯỜNG
Theo sách cổ thì Tết Trung thu
bắt đầu từ đời nhà Đường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh. Sách xưa chép rằng,
nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được
lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép
đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước,
bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu
sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là
khúc Nghê-Thường vũ y.
Vua Đường thích quá; nhờ có
khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và
điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó,
quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với
điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền
chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các
quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai
trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến
thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau Tết Trung Thu lan rộng
sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử Việt không nói rõ
dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước,
tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa bắt đầu có
màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong
các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh
kẹo còn có các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà
giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy
chồng.
HẬU NGHỆ XẠ NHẬT
Hậu Nghệ là một người bất tử,
trong khi đó Hằng Nga là một tiên nữ xinh đẹp sống ở Thiên Đình và phục vụ cho
Tây Vương Mẫu. Cả hai người là vợ chồng. Sắc đẹp của Hằng Nga và sự bất tử của
Hậu Nghệ đã làm cho một số vị thần tiên khác ghanh ghét, và họ đã vu oan một tội
lỗi phạm thiên đình cho Hậu Nghệ trước mặt Vua Nghiêu. Từ đó, Hằng Nga và Hậu
Nghệ bị đuổi khỏi hoàng cung và phải sống cuộc đời thường dân. Từ đó, cuộc sống
làm lụng, săn bắn đã làm cho chàng Hậu Nghệ trở thành một xạ thủ có tiếng trong
dân gian.
Bấy giờ, có 10 mặt trời cùng
lúc tồn tại, cứ một mặt trời thì chiếu một ngày, và cứ thay phiên như vậy trong
vòng một ngày. Tuy nhiên, tai họa ập đến, một ngày kia cả 10 mặt trời cùng xuất
hiện trong một ngày và đã thiêu cháy hầu hết sinh linh trên mặt đất. Trước hoàn
cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” trên, Vua Nghiêu đã sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời
chỉ để một cái lại mà thôi. Chàng Hậu Nghệ đã hoàn thành sứ mạng xuất sắc.
Để đáp lại, Vua Nghiêu đã cho
chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn rằng “Tạm thời không được uống
cái này vào, hay bắt đầu cầu nguyện và ăn chay trong một năm sau đó mới được uống”.
Hậu Nghệ làm theo, chàng đem viên thuốc về nhà và giấu nó ở cái rui trên nóc
nhà và tự khổ luyện tinh thần. Được khoảng nửa năm, Vua Nghiêu mời chàng đến
kinh thành “chơi” . Hằng Nga ở nhà thì bỗng lưu ý đến một vật sáng lóng lánh
trên mái nhà và phát hiện ra viên linh dược, sau đó, biết là linh dược, nàng đã
uống ngay viên thuốc cũng đúng lúc Hậu Nghệ vừa về đến và ngay tức khắc chàng
đã biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng tất cả đã quá muộn, Hằng Nga bắt đầu bay về
trời.
Với chiếc nỏ trong tay, Hậu
Nghệ đuổi theo Hằng Nga. Nhưng đi được đến nửa đường thì thần Gió đã cản chàng
lại mặc cho nàng tiên nữ xinh đẹp kia bay đến mặt trăng. Khi vừa đến nơi Hằng Nga
bỗng không thở được và viên thuốc bỗng văng ra. Kể từ đó, Hằng Nga mãi ở trên mặt
trăng không thể nào trở lại. Truyền thuyết còn kể lại rằng nàng đã kêu gọi những
con thỏ ở mặt trăng tạo ra viên thuốc giống như vậy để nàng còn quay về với người
chồng ngày đêm mong nhớ, nhưng tất cả đều vô dụng.
Trong khi đó, ở dương thế, sự
mong nhớ và nỗi hối hận ngày đêm cồn cào Hậu Nghệ. Cuối cùng, chàng xây một lâu
đài trong mặt trời và đặt tên là “Dương”, trong khi đó thì Hằng Nga cũng xây một
lâu đài tương tự đặt tên là “Âm”. Cứ mỗi năm một lần, vào ngày rằm tháng 8, hai
người được đoàn viên trong niềm hân hoan hạnh phúc. Chính vì thế mà mặt trăng
luôn thật tròn và thật sáng vào ngày này như đê nói đến niềm vui, sự hân hoan
khi được gặp mặt của con người.
Đây là tài liệu có trong truyền
thuyết Trung Quốc khá phổ biến ở thời Tây Hán(206 TCN – 24 SCN)
3 câu chuyện trên là 3 mẫu
chuyện có thực có ảo, trong ảo là thực, trong thực là ảo, như một loại chuyện
phiếm để vừa kể chuyện vừa ngắm trăng của người xưa. Và ý nghĩa lịch sử của tết
trung thu được cho là có thực gần như 100% là câu truyện này
Tết Trung Thu được cho là thời
điểm kỷ niệm của quân Minh chống lại quân Nguyên vào đầu thế kỷ XIV. Vào thời
đó, quân Minh đang nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyên chính vì vậy, việc tụ
tập tại những nơi công cộng bị cấm. Thế nên nghĩa quân không thể liên lạc được.
Một vị tướng của quân Minh thời đó nhận thấy rằng người Mông Cổ không ăn Bánh
Trung Thu, chính vì thế ông ta đã mở một tiệm bán bánh và trong mỗi cái bánh là
một miếng giấy nhỏ viết rằng: “Giết tất cả bọn Mông Cổ vào ngày 15 tháng 8”.
Đêm trung thu năm đó, quân Minh đã tiêu diệt được quân Nguyên và giành chính
quyền. Và sau đó là việc thành lập triều đại Nhà Minh( 1368 – 1644), dưới sự thống
lĩnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương. Kể từ đó, Bánh Trung Thu không chỉ có giá
trị ở khía cạnh văn hóa mà nó còn chứa đựng trong nó lòng tự hào dân tộc của
người Trung Quốc.
Chính vì những lý do đó, Tết
Trung Thu trở nên một phần không thể thiếu của nền văn hóa Trung Quốc đến nỗi
ngày nay rất nhiều người Trung Quốc đặt tên cho con gái họ là Nguyệt với ước
mong con gái họ sẽ xinh đẹp, trong sáng và đầy đặn như mặt trăng vậy.
Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng
trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000
năm.
Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng
năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa
quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ,
trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức
ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Đêm Trung thu, các em rước
đèn, múa sư tử. Ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là múa lân. Lân còn gọi
là kỳ lân. Kỳ là tên con đực, lân là tên con cái. Lân là con vật đứng thứ hai
trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng). Lân là con vật
thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở
ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân
là con vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được. Thoạt nhìn, đầu
lân giống đầu sư tử. Do vậy, người ta gọi múa lân thành múa sư tử.
Bên cạnh đó, một vài địa
phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân
hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều phết giấy Tàu
bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và phía dưới có đường viền sặc sỡ.
Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa bốc lên, tán giấy
xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy quân vì hình đoàn quân cứ liên tục
kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu
(nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt
nào cũng được.
Trẻ em rất thích ăn bánh Trung
thu, múa lân và rước đèn kéo quân. Từ đó, Tết Trung thu nghiễm nhiên trở thành
Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.
Ở Việt Nam, từ đầu tháng, người
ta đã chuẩn bị những cỗ đèn muôn màu, muôn sắc, hình thù độc đáo, các đồ chơi của
trẻ nhất là hình ông tiến sĩ giấy cùng bánh dẻo, bánh nướng, gọi chung là bánh
trung thu để đón Tết. Trẻ em mang những lồng đèn màu sắc sặc sỡ thắp sáng thành
từng đoàn dài kéo nhau đi các thôn ngõ để ca hát reo vui dưới ánh trăng. Khi những
ngày Rằm cận kề, các đoàn múa lân, múa sư tử rầm rộ với tiếng kèn, tiếng trống,
tiếng pháo càng thêm náo nhiệt.
0 nhận xét: